Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Rối bời việc "xử" nợ xấu ngân hàng

Lập một công ty mua bán nợ xấu trực thuộc Ngân hàng Nhà nước hay mở rộng công ty mua bán nợ xấu thuộc Bộ Tài chính để giải quyết số nợ xấu trong hệ thống tài chính tăng lên từng ngày? 
 
Bài liên quan : <<  Ngân hàng Habubank Xóa Nợ Thành Công>>
                          <<  Ngân hàng Habubank Tự Tin Phát Triển>>
 
Nợ xấu 10% hay hơn?
Công khai thông tin về con số nợ xấu trong hệ thống tài chính của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tại diễn đàn Quốc hội mới đây đã nhận được nhiều phản ứng trái chiều. Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, nợ xấu của hệ thống NH, theo đánh giá của NHNN hiện đã tăng lên mức 10%.
Tăng tới hơn 6% so với những công bố trước đây của cơ quan quản lý tiền tệ khiến nhiều người bị "sốc". Nhưng, nếu so với những đánh giá độc lập của các hãng xếp hạng tín nhiệm trước đây, như Fitch Ratings trong đánh giá độc lập của mình cho rằng nợ xấu hệ thống NH Việt Nam khoảng 13% tổng dư nợ; hay Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trong công bố mới nhất cũng đưa ra mức dự báo nợ không có khả năng thu hồi của khối NH dao động 8,25-14,01%... đưa ra thì nhiều chuyên gia và cả người trong cuộc cũng không phải quá bất ngờ.Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành tỏ ra không mấy bất ngờ về con số nợ xấu mà Thống đốc NHNN công bố. "Tôi không bất ngờ về sự khác biệt các con số nợ xấu nay, vì NHNN cũng đã có báo cáo Chính phủ việc này rồi. Nếu căn cứ theo khai báo của các NH thì dự nợ xấu chỉ như vậy, nhưng qua thanh tra, kiểm tra thực tế thì mức nợ xấu cao hơn khai báo nhiều lần. Đây là phần trách nhiệm của NHNN, phải xác định được nợ xấu thực sự là bao nhiêu, từ đó, quản lý được rủi ro trong hệ thống" – ông Thành nói và lưu ý.
Trong khi lãi suất cho vay đã giảm mạnh khi trần lãi suất về 9%/năm, nhưng trong bối cảnh kinh doanh không thuận lợi và nợ xấu vẫn đang là vấn nạn ngăn dòng tín dụng thì dòng vốn khó khơi thông, dù vốn khả dụng dư thừa. Chỉ khi nào "cục máu đông" nợ xấu được giải quyết thì lúc đó cây cầu vốn giữa DN và NH mới hết "tắc nghẽn".
Hiện, ngoài công ty mua bán nợ xấu DATC thuộc Bộ Tài chính và 20 công ty mua bán nợ xấu trực thuộc các NHTM (công ty AMC) thì khi nợ xấu đang gia tăng nhanh chóng chắc chắn cần một giải pháp căn cơ để quét sạch.
Và để giải quyết số nợ khủng này, người đứng đầu NHNN cho hay, cơ quan này đang nghiên cứu để thành lập một công ty mua bán nợ xấu quốc gia với số vốn khoảng 100.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, điều băn khoăn là hiện đã có một công ty mua bán nợ xấu quốc gia (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính, việc lập một công ty mua bán nợ mới có thực sự cần thiết và xử lý được vấn nạn nợ xấu đang ngày càng "dềnh" lên trong hệ thống NH? Hay nên "xốc" lại và bơm vốn cho DATC để công ty này phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình. Thêm nữa, số vốn 100.000 tỷ đồng mà NHNN dự trù bơm cho công ty mua bán nợ mới sẽ lấy nguồn từ đâu?... Vẫn đang là những câu hỏi rối bời chưa có giải đáp thỏa đáng.
Mua lại không dễ
Xung quanh câu chuyện lập công ty mua bán nợ xấu trực thuộc NHNN, trao đổi với PV báo điện tử Infonet, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh nói thẳng: "Không nên thành lập công ty mua bán nợ vì việc thành lập một công ty trực thuộc Nhà nước khá phức tạp trong quản lý, nhất là trong bối cảnh các DNNN đang cần sắp xếp lại". Theo TS. Ánh, kinh nghiệm trong xử lý nợ xấu của các nước cho thấy, thường những DN kiểu này chỉ được thành lập ra làm 1 nhiệm vụ duy nhất, khi nhiệm vụ đó hoàn thành thì sẽ bị giải tán. "Nếu chỉ "đẻ" ra một DN để giải quyết công việc trước mắt thì không nên. Bởi khi giải quyết xong làm thủ tục giải thể cho nó khá phức tạp, như hiện nay nhiều DN muốn xin "chết" mà không được chết" – ông Ánh nói.
Thừa nhận với số vốn ít ỏi hơn 2.000 tỷ đồng của DATC hiện nay khó lòng giải quyết được số nợ xấu đang "chất cao như núi" (hiện lên tới 270.000 tỷ đồng), nhưng ông Phạm Mạnh Thường – Phó tổng giám đốc DATC vẫn cho rằng, thay vì lập một DN mới NHNN nên phối hợp với Bộ Tài chính, cụ thể là công ty mua bán nợ trực thuộc Bộ Tài chính, xem xét vướng mắc trong cơ chế chính sách hiện đang nằm ở đâu; từ đó tìm ra phương án giải quyết nợ xấu hiệu quả nhất.
Còn chuyên gia Bùi Kiến Thành nói thẳng, Chính phủ không có nhiệm vụ phải mua lại nợ xấu của NH. "Hiện trong hệ thống tài chính tồn tại những NH lại là sân sau của một số đại gia nào đó, huy động vốn trong nhân dân để cho vay dự án của mình. NHNN cũng đã thấy hiện tượng đó rồi, những trường hợp này lên tới 60-70% nợ xấu. NHNN phải khoanh các đối tượng này, giám sát chặt chẽ. Vấn đề là Chính phủ phải xác định rõ mục tiêu mua nợ xấu để làm gì? Nếu để ra lợi nhuận thì phải tính toán. Còn nếu để cứu nền kinh tế, thì cần đạt mục tiêu bảo toàn vốn đã bỏ ra và khơi thông dòng vốn cho ngân hàng"- ông Thành nêu quan điểm.
Ngân hàng Habubank

Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

Ngân hàng chăm chút doanh nghiệp nhỏ

Trong bối cảnh tín dụng khó tăng trưởng đạt mục tiêu, nhiều ngân hàng thi nhau tung các gói ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với lãi suất thấp hơn thông thường 1-2% một năm. 
 
Bài liên quan : <<  Ngân hàng Habubank  >>
 
Trước khi chủ trương áp trần lãi suất 15% với 4 đối tượng được công bố, Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) đã thực hiện đợt hạ lãi suất cho vay bên cạnh chính sách ưu đãi cho một số khách hàng thuộc các lĩnh vực xuất khẩu và sản xuất kinh doanh. Tổng hạn mức của đợt ưu đãi này lên tới 5.000 tỷ đồng. Trong đó lãi suất cho vay ưu đãi giảm mạnh nhất lên tới 2% một năm. Bên cạnh đó, nhà băng này cũng tung gói tín dụng ưu đãi với lãi suất vay thấp hơn 3% so với các khoản vay thông thường áp dụng cho các doanh nghiệp phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và doanh nghiệp xuất khẩu, sản xuất kinh doanh.
“Chủ trương giảm lãi suất vay lần này của chúng tôi nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, VPBank cũng muốn dành ra một lượng vốn nhất định để đáp ứng cho các đối tượng vay ưu đãi theo định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, giúp khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay”, một đại diện lãnh đạo của VPBank chia sẻ.
VPBank cũng hưởng ứng Thông tư 14 của Ngân hàng Nhà nước bằng việc lên kế hoạch điều chỉnh mức lãi suất cho vay một số lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa là 15% một năm. Dự kiến, mức lãi suất cho vay 15% sẽ được VPBank áp dụng từ ngày 8/5 tới.
Trước đó, tháng 9/2011, nhà băng này áp dụng chính sách vay vốn lưu động với lãi suất ưu đãi cho một số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu lâm nông thủy sản... với hạn mức lên tới 3.000 tỷ đồng.
Ngân hàng SHB cũng dành ra 5.000 tỷ đồng cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn và xuất khẩu, đồng thời cấp hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ lãi suất 15% một năm. Maritime Bank cũng dùng 2.000 tỷ đồng ưu đãi lãi suất cho các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy hải sản, sản xuất, kinh doanh phân bón, hóa chất, thuốc…
Nhìn nhận về động thái giảm lãi vay trên, ông Huỳnh Bửu Quang, Phó tổng giám đốc Ngân hàng HSBC cho rằng, lãi suất đầu vào chỉ còn 12%, cộng với động thái giảm nhanh của lãi suất liên ngân hàng trong thời gian qua, buộc lãi đầu ra phải hạ xuống.
Ngoài ra, theo vị Phó tổng thì với giai đoạn hiện nay, không chỉ doanh nghiệp khó khăn mà ngay cả đầu ra của ngân hàng cũng bị tắc. Do đó, về phía Ngân hàng Nhà nước đã có động thái hối thúc giảm lãi suất, nhưng Bộ tài chính cũng phải giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp để tạo ra sự vận hành nhịp nhàng trong nền kinh tế. "Sức giảm lãi suất trên thị trường thời gian tới có nhanh hay không sẽ phụ thuộc vào sự phục hồi của nền kinh tế", ông Quang nhấn mạnh.
Đại diện Ngân hàng MB thì lý giải, hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang rất cần nguồn vốn tốt phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Việc cho vay ưu đãi lần này của nhà băng nhằm hiện thực hóa chính sách của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình triển khai các chương trình tín dụng hướng vào phục vụ sản xuất kinh doanh.
Trên thực tế, một số doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi. Lãnh đạo Công ty Phong Lan (TP HCM) cho biết, hiện tại đơn vị ông đã vay nhà băng với lãi suất khoảng 16,5%, giảm 1% so với trước đó.
Ngân hàng Habubank

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

Tiền ngân hàng trả lại ngân hàng!

Đang xuất hiện hai thái cực trong nền kinh tế: lãi suất trái phiếu, tín phiếu, liên ngân hàng xuống mức thấp kể từ năm 2007; doanh nghiệp không thể hấp thụ vốn, tiếp tục vật lộn trong khi hàng tồn kho vẫn ứ đọng. 
Tiền không thể đến nơi cần vốn, nó đang quay trở lại ngân hàng!
Lãi suất qua đêm liên ngân hàng 3%/năm
Có lẽ chưa bao giờ trong vòng năm năm qua lãi suất qua đêm liên ngân hàng lại được chào mời ở mức thấp như vậy. Theo BIDV, tuần trước lãi suất từ qua đêm đến một tuần dao động trong khoảng 3-4%/năm, thậm chí lãi suất một tháng cũng chưa tới 7%/năm. Các ngân hàng quốc doanh (hoặc vừa cổ phần hóa) và nước ngoài - những lực lượng chủ đạo của ngành tài chính - là người chào bán và các công ty tài chính, ngân hàng cổ phần nhỏ là người mua. Người bán áp đảo người mua, nguồn cung áp đảo cầu, nên theo qui luật thị trường, giá hạ. Sự tụt áp của lãi suất khiến người ta nhớ lại tốc độ lao dốc của thị trường chứng khoán tháng 11 năm ngoái. Chỉ khác là khi đó chứng khoán đã “chết ngất”, còn bây giờ dù lãi suất cận đáy, ngân hàng vẫn sống khỏe.
Thị trường tín phiếu, trái phiếu cũng không khá hơn. Cửa thứ hai khả dĩ để vốn ngân hàng không bị “bức tử” này đang chứng kiến người mua hạ “nốc ao” lãi suất. Lãi suất trái phiếu kỳ hạn một năm còn 9,3%/năm, kỳ hạn 10 năm lần đầu tiên không thể vượt qua mốc 10%/năm. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bán ra còn rớt thảm hơn nữa khi kỳ hạn bốn tuần (28 ngày) chạm mức 5%/năm. Giá cao (vì lãi suất thấp) nhưng vẫn còn có hàng mà mua, chứ từ tuần này trở đi có tiền cũng chưa chắc mua được tín phiếu. Chẳng là NHNN vừa quyết định rút ngắn giao dịch tín phiếu từ 1 lần/ngày xuống 1 lần/tuần, chợ từ chỗ ngày nào cũng mở, giờ chỉ mở hàng tuần. Chỉ trong tháng 4-2012 qua kênh tín phiếu NHNN đã hút về 51.000 tỉ đồng, quá đủ để đảm bảo lạm phát chưa thể quay lại tức thì.
Nghịch lý lãi suất hay phản ứng chậm của chính sách?
Các ngân hàng thương mại nói rằng họ buộc phải mua trái phiếu, tín phiếu và giao dịch liên ngân hàng vì vốn đọng nhiều quá. Đây là kênh an toàn, đảm bảo không có nợ quá hạn. Giao dịch liên ngân hàng hiện nay phần lớn phải có tài sản thế chấp bằng vàng, ngoại tệ hay giấy tờ có giá, không phải bất động sản hoặc nhà xưởng, máy móc, nguyên liệu vốn chứa đựng không ít rủi ro như cho doanh nghiệp vay.
Với tình trạng này lãi suất 10%/năm họ cũng không vay vì làm gì ra từng ấy phần trăm lợi nhuận, sau khi trừ mọi chi phí khác, để trả lãi ngân hàng?
Vì sao doanh nghiệp cần vốn, ngân hàng habubank không mặn mà cho vay? Tổng giám đốc một ngân hàng giải thích: “Chúng tôi muốn cho vay lắm chứ và đã hạ lãi suất đầu ra rồi. Những lĩnh vực không ưu tiên cũng chỉ còn 17%/năm, cái chính là doanh nghiệp không hấp thụ được vốn. Họ vay để làm gì khi hàng sản xuất ra không bán được dù lãi suất chỉ 15%/năm? Một số khách hàng của chúng tôi phải hạ giá bán sản phẩm, cắt lỗ mà tiêu thụ vẫn chậm. Với tình trạng này lãi suất 10%/năm họ cũng không vay vì làm gì ra từng ấy phần trăm lợi nhuận, sau khi trừ mọi chi phí khác, để trả lãi ngân hàng?”.
Nghịch lý là ở chỗ này. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất tiền đồng tụt dốc, nhưng lãi suất thương mại lại thuộc hàng cao nhất thế giới. Ngay cả so với lãi suất đầu ra đô la Mỹ tại Việt Nam hiện khoảng 7-8%/năm, lãi suất cho vay tiền đồng vẫn gấp đôi. Trong điều kiện bình thường, doanh nghiệp đã khó lòng chịu được mức lãi suất đó, huống hồ trong bối cảnh sản xuất đình đốn hiện nay, với lãi suất ấy càng vay càng nhanh “chết”.
 

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Những Thay Đổi Tích Cực Của Ngân Hàng Habubank

Ngân Hàng Habubank


Cụ thể, việc gia nhập với ngân hàng SHB sẽ giúp hai ngân hàng tiến tới và trở trở thành một định chế tài chính bền vững và thương hiệu cũng mạnh hơn; Habubank sẽ không còn nợ xấu.  Hai ngân hàng sát nhập có khả năng cùng điều hành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh tốt hơn sau giai đoạn sáp nhập; mở rộng khả năng phát triển dịch vụ, đặc biệt là hoạt động bán lẻ do mạng lưới phân phối dịch vụ, thị phần lớn hơn; bổ sung lợi thế về quy mô trong phát triển kinh doanh, trong quản lý chi phí; những điểm mạnh của ngân hàng nhận sáp nhập sẽ hỗ trợ cho ngân hàng Habubank và ngược lại Habubank có nhiều điểm mạnh để hỗ trợ ngân hàng nhận sáp nhập.
ngân hàng habubank

Ngoài ra, còn nhận được sự hỗ trợ và quan tâm của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình sáp nhập do việc sáp nhập nằm trong chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

Nếu tiến hành sáp nhập thành công, theo ngân hàng Habubank kế hoạch này sẽ tạo ra một định chế tài chính có khả năng tồn tại và phát triển. Định chế này có vốn điều lệ khoảng gần 9.000 tỷ đồng và quy mô tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng, hoạt động khắp các tỉnh thành lớn trong cả nước; có số lượng khoảng 500.000 khách hàng; khoảng 5.000 nhân viên; có các công ty con, có khả năng cung cấp các hoạt động hỗ trợ, gia tăng lợi ích cho khách hàng và tăng thu nhập ngoài lãi cho ngân hàng; có địa bàn hoạt động trong khu vực Đông Dương với các chi nhánh tại Lào và Campuchia; có sự hậu thuẫn mạnh mẽ và có các khách hàng hoạt động trong những lĩnh vực cốt lõi cho sự phát triển của nền kinh tế như: than, khoáng sản, cây công nghiệp (cao su), phát triển hạ tầng và một lực lượng đông đảo các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các ngành kinh tế khác nhau; có khả năng cung cấp các dịch vụ hiệu quả và an toàn cho một khối lượng lớn các khách hàng cá nhân...
ngân hàng habubank-3


Báo cáo kinh tế 2011 của Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) mới đây nhấn mạnh: "Tâm điểm của nguy cơ rủi ro vĩ mô Việt Nam hiện nay nằm trong khu vực ngân hàng thương mại". Vậy công tác quản trị rủi ro tại các ngân hàng như thế nào? ĐTCK đã có cuộc trao đổi với bà Bùi Thị Mai, Tổng giám đốc kiêm Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank).
Theo bà, công nghệ tiên tiến đóng vai trò như thế nào đối với công tác QTRR của ngân hàng?
Công nghệ thông tin (CNTT) tiên tiến, hiện đại có vai trò đặc biệt quan trọng và là công cụ đắc lực trong công tác QTRR của các ngân hàng. Thứ nhất, CNTT sẽ giúp ngân hàng Habubank linh hoạt trong việc cung ứng các sản phẩm và dịch vụ tốt nhất, nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng với mục tiêu nhanh chóng, thuận tiện, chính xác, an toàn và hiệu quả, đồng thời giúp hạn chế tối đa các rủi ro trong các quá trình giao dịch và tác nghiệp của ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng sẽ thuận tiện hơn trong việc chiết xuất được những dữ liệu và báo cáo phức tạp nhất phục vụ công tác phân tích và ra các quyết định kinh doanh. Ngoài ra, CNTT còn đóng vai trò trong việc cảnh báo và phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh hàng ngày của ngân hàng thông qua các giới hạn và hạn mức đã được thiết lập.
Thứ ba, đối với các tiêu chí an toàn theo quy định của NHNN và cơ quan quản lý, một hệ thống hiện đại sẽ có chức năng thường xuyên nhắc nhở và theo dõi cập nhật các thông tin và kết quả của các chỉ tiêu này, giúp ban lãnh đạo ngân hàng chủ động trong việc ra các quyết định liên quan nhằm chèo lái ngân hàng theo con đường ổn định, an toàn và hiệu quả nhất.

Đối với Habubank, Ngân hàng đã triển khai sử dụng phần mềm lõi Corebanking  từ năm 2007, một công cụ hỗ trợ kiểm soát và QTRR tự động hiệu quả khi quy mô ngân hàng ngày càng phát triển.